Người Hy Lap cổ xưa đã dùng cà rốt, nhưng chỉ để
làm thuốc chữa một số bệnh dạ dày. Cà rốt bắt đầu được người Tây Ban Nha dùng
làm thực phẩm vào khoảng thế kỷ thứ 12, được ăn với dầu, muối và giấm.
Loại cà rốt đầu tiên ở Afghanistan có các màu
trắng, đỏ và vàng. Hà Lan là quốc gia đầu tiên trồng cà rốt màu cam vào khoảng
đầu thế kỷ 17. Người Tây Ban Nha mang theo cà rốt đến châu Mỹ vào thế kỷ thứ
15, rồi người Anh cũng mang cà rốt theo khi họ đi chinh phục châu Mỹ vào thế kỷ
thứ 16.
Ngày nay cà rốt được trồng ở khắp nơi trên thế
giới. Trung Hoa đứng đầu về sản lượng, tiếp theo là Hoa Kỳ, Ba Lan, Nhật Bản,
Pháp, Anh, Đức... Hoa Kỳ thu hoạch mỗi năm 1,5 triệu tấn cà rốt, hơn một nửa được
trồng ở bang California.
Giá trị
dinh dưỡng
Một củ cà rốt cỡ trung bình có khoảng 19mg calci, 32mg phospho, 233mg kali, 7mg vitamin C, 7 g carbohydrat, 6.000mcg vitamin A.
Những người thích uống nước trái cây có thể dùng
một ly (240ml) cà rốt lạnh nguyên chất với khoảng 59mg calci, 103mg phospho, 718mg
kali, 21mg vitamin C, 23g carbohydrat và 18.000mcg vitamin A. Thật là một món
giải khát vừa ngon, vừa bổ dưỡng.
Tác dụng
trị bệnh
Cà rốt chứa rất nhiều beta caroten, còn gọi là
tiền vitamin A, vì chất này đựợc cơ thể chuyển hóa thành vitamin A để sử dụng.
Chính tên gọi caroten là bắt nguồn từ chữ carrot.
Khi đựợc đưa vào cơ thể, caroten được chuyển hóa
thành vitamin A với sự trợ giúp của một lượng rất ít chất béo, vì vitamin A hòa
tan trong chất béo.
Trong 100g cà rốt có 12.000mcg caroten, có khả
năng đựợc chuyển hóa thành khoảng 6.000mcg vitamin A trong cơ thể
Có thể so sánh với lượng caroten có trong 100g
khoai lang là 6000mcg, xoài là 1.200mcg, đu đủ là 1.200 đến 1.500 mcg, cà chua
là 600mcg, bắp su có 300 mcg, cam có 50mcg...
Beta caroten có tác dụng chống ung thư trong thời kỳ sơ khởi, là thời kỳ mà các gốc tự do tác động để biến các tế bào lành mạnh thành tế bào bệnh. Beta caroten là chất chống oxy hóa, ngăn chận tác động của gốc tự do. Beta caroten làm giảm nguy cơ gây ung thư phổi, ung thư tuyến nhiếp hộ, ung thư tụy tạng, ung thư vú và nhiều loại ung thư khác.
Từ thời thượng cổ, cà rốt, nước ép cà rốt, trà
cà rốt đã đựợc dùng để trị bệnh ở Ấn Độ, Hy Lạp và La Mã.
Theo nhà sinh vật học J. L. Hartwell thì cà rốt
đựợc dùng trong y học dân gian để trị các chứng bệnh ung thư, mụn loét có tính
ung thư, chứng suy gan và suy tủy sống tại một số địa phương rải rác trên thế
giới như Chile, Bỉ, Anh, Đức, Nga, Mỹ...
Thí nghiệm bên Scotland cho thấy những người ăn
200g cà rốt mỗi ngày liên tục trong 3 tuần có thể hạ mức cholesterol trong máu
xuống khoảng 11%.
Cà rốt không ngăn ngừa hoặc chữa đựợc cận thị
hay viễn thị, nhưng khi thiếu vitamin A, mắt sẽ không nhìn thấy rõ trong bóng
tối. Chúng ta chỉ cần ăn một củ cà rốt mỗi ngày là đủ vitamin A để khỏi bị
quáng gà.
Nhiều người còn cho là cà rốt với lượng beta
caroten lớn còn có khả năng chữa và ngăn ngừa đựợc các chứng viêm mắt, cườm
mắt, thoái hóa võng mạc...
Một số bác sĩ chuyên khoa tiêu hóa nhận xét rằng
cà rốt làm giảm táo bón, làm phân mềm và lớn hơn nhờ có nhiều chất xơ (fiber).
Nhờ công dụng này, cà rốt cũng có thể làm giảm nguy cơ ung thư ruột già.
Với phụ nữ, cà rốt có thể mang lại nhiều lợi ích
như làm giảm kinh nguyệt quá nhiều, giảm triệu chứng khó chịu trước khi có
kinh, giảm bớt chứng viêm âm hộ và nhiễm trùng đường tiểu tiện, đặc biệt là
giảm nguy cơ bị chứng loãng xương sau thời kỳ mãn kinh.
Roberta Roberti, một nhà dinh dưỡng có uy tín ở
Hoa Kỳ đã liệt kê một số công năng của cà rốt đối với cơ thể như: làm tăng tính
miễn dịch, nhất là ở người cao tuổi, giảm cháy nắng, giảm các triệu chứng khó
chịu khi cai rượu, chống nhiễm trùng, chống viêm phổi, giảm bớt mụn trứng cá,
tăng hồng cầu, làm vết thương mau lành, giảm nguy cơ bệnh tim mạch...
Dùng trong ăn uống
Vị dịu ngọt của cà rốt rất thích hợp với nhiều
thực phẩm khác, nên cà rốt đựợc dùng trong nhiều cách nấu nướng.
Cà rốt dù ăn sống hay nấu chín vẫn giữ được các
chất bổ dưỡng. Đặc biệt là khi nấu chín thì cà rốt tốt hơn vì hơi nóng làm phân
hủy những mảnh bao bọc caroten, làm chất này dễ hấp thụ hơn. Nhưng nấu chín quá
thì một lượng lớn caroten sẽ bị phân hủy.
Cà rốt ăn sống là món ăn rất bổ dưỡng vì nhiều
chất xơ mà ít năng lượng. Cà rốt tươi có thể dùng trong món rau trộn...
Cà rốt đông lạnh cũng tốt như cà rốt ăn sống
hoặc nấu chín, chỉ có cà rốt phơi hay sấy khô là mất đi một ít beta caroten. Cà
rốt ngâm giấm đường cũng là món ăn ưa thích của nhiều người.
Ăn nhiều cà rốt làm da có màu hơi vàng, nhưng
không hại gì vì da trở lại bình thường sau khi ngưng ăn.
Bảo quản
Khi mua cà rốt, nên chọn những củ còn lá xanh
tươi. Củ phải chắc nịch, màu tươi bóng và hình dáng gọn gàng.
Mang về nhà, nếu chưa ăn ngay nên cắt bớt lá để khỏi
bị thoát nước, cất vào tủ lạnh, nhưng đừng để gần cà chua và táo vì hai loại
này tiết ra hơi ethylene làm cà rốt mau hư.
Kết luận
Cà rốt là món ăn khá rẻ tiền so với lượng dinh dưỡng quý giá mà nó cung cấp. Nhiều người ít ăn cà rốt chỉ vì thiếu hiểu biết đầy đủ về giá trị dinh dưỡng của nó. Mặt khác, tập quán ăn uống vốn đựợc hình thành từ thói quen lâu ngày. Cà rốt là loại cây trồng mới được đưa đến Việt Nam từ thế kỷ trước, nên đối với phần đông người Việt, nhất là những người dân quê, vẫn chưa quen thuộc với việc sử dụng cà rốt thường xuyên trong bữa ăn hằng ngày. Nếu biết tận dụng loại thực phẩm này, chắc chắn chúng ta sẽ nâng cao tình trạng sức khỏe cũng như phòng ngừa đựợc hầu hết các bệnh do thiếu vitamin A.