Rong biển (seaweeds) còn
có các tên gọi khác như rong mơ, rau mã vĩ, hải tảo... là loại thực vật sống ở
biển.
Theo các nhà sinh vật
học, có đến hơn hai ngàn loài rong biển, được phân chia làm bốn nhóm chính tùy
theo màu sắc của chúng: rong nâu, rong đỏ, rong màu lục và rong màu xanh. Rong
có thể ngắn, nhỏ li ti hoặc dài đến 700m như loài tảo bẹ.
Rong biển mọc tự nhiên
rất nhiều ở biển, nhưng hiện nay có nhiều quốc gia cũng lập những trang trại
nuôi trồng rong biển để đáp ứng nhu cầu ngày một tăng.
Giá trị dinh dưỡng
Từ lâu rong biển đã đươc
dùng làm thực phẩm cho người và gia súc vì có nhiều chất dinh dưỡng và khi ăn
cho một vị rất ngon.
Loài thực vật này chiếm
tới 25% trong các món ăn của người Nhật như nấu súp, trộn xà lách, ăn với đồ
biển (sushi), với thịt. Người Việt Nam cũng đã biết thưởng thức rong biển từ
lâu, tuy rằng ít người chú ý đến đặc tính bổ dưỡng và trị bệnh của nó.
Rong biển rất giàu những
chất dinh dưỡng căn bản như chất đạm, acid folic, beta caroten, calci, iod,
natri, magnesium, kali, phosphor và sắt. Viện Nghiên cứu rong biển ở Na Uy đã
phân tích được tới gần 60 khoáng chất khác nhau trong rong biển.
Rong biển cung cấp rất
ít năng lượng. Một khẩu phần ăn trung bình chỉ cung cấp chừng 100 calori nên
rất tốt cho những ai muốn giữ thân hình thon thả, nhưng kèm theo đó là khoảng
200mcg acid folic, 2g chất đạm và 120mg magnesium.
Loài rong biển wakame ở
Nhật còn có nhiều loại acid amin như alanine, arginine... và acid glutamic,
glycine, leucine, isoleucine... Vì thế rong biển là một món ăn ngon miệng và bổ
dưỡng.
Bác sĩ người Đức, Heinz
A. Hope, một chuyên gia nổi tiếng về rong biển cho rằng rong biển là nguồn thực
phẩm rất lớn, có thể góp phần giải quyết nạn khan hiếm thực phẩm ở các nước
nghèo.
Trong rong có chất algin
được dùng trong kỹ nghệ thực phẩm để làm cho các chất lỏng kết hợp lại với
nhau. Chẳng hạn như khi cho vào kem, algin làm nước trong sữa không kết tinh mà
trộn đều với nhau.
Rong biển được bán tươi,
hoặc phơi khô, hoặc xay thành bột, hoặc làm thành dạng viên...
Tác dụng trị bệnh
Tương truyền là vua Thần
Nông (khoảng 3000 năm trước Công nguyên) và đức Khổng Tử (551 - 479 trước Công
nguyên) đều đã biết rằng rong biển có đặc tính dinh dưỡng và trị liệu. Từ thời
thượng cổ, ở Trung Hoa rong biển đã được dùng để chữa bệnh ung thư.
Theo Jean Carpenter,
khoa học hiện đại đã công nhận rong biển là một trong những dược liệu thiên
nhiên có quanh năm, với nhiều công dụng như ngăn ngừa và chữa vài loại ung thư,
làm giảm cholesterol và huyết áp, làm loãng máu, ngăn ngừa viêm loét dạ dày,
tiêu diệt vi khuẩn và làm thông đại tiện...
Theo bác sĩ Jane Teas
của Đại học Harvard, những vùng có tập quán ăn nhiều rong biển như miền biển
Sago và Hokkaido ở Nhật có tỷ lệ ung thư vú thấp hơn so với các địa phương
khác.
Bác sĩ Nhật Ichiro
Yamamoto của Đại học Kitasato đã nghiên cứu rong biển trong 15 năm, và kết luận
rằng rong biển có tác dụng chống ung thư vú, ung thư máu, ung thư ruột già và
nhiều loại ung thư khác.
Rong biển cũng có khả năng kháng
sinh. Năm 1917, khoa học gia người Đức R. Harder đã khám phá đặc tính kháng
sinh của rong biển.
Đến năm 1959 khoa học gia Mỹ J.
M. N. Sieburth nhận thấy trong ruột của chim cánh cụt không có vi khuẩn. Sau
khi nghiên cứu, ông mới tìm ra nguyên do là chim cánh cụt ăn tôm, mà tôm có
chất kháng sinh nhờ ăn rong biển.
Từ đó tới nay, nhiều cuộc khảo cứu khác cho thấy rong biển có chứa những chất kháng sinh với đặc tính không kém gì các kháng sinh nhân tạo như penicillin, terramycin và streptomycin.
Ngoài khả năng kháng sinh, rong
biển còn có đặc tính hạ huyết áp, làm loãng máu và hạ cholesterol, cho nên
người Nhật xem rong biển là loại thực phẩm giúp sống lâu. Loài rong biển wakame
ở Nhật có đặc tính hóa giải chất độc nicotin trong thuốc lá.
Rong biển có nhiều iod, cần cho
các chức năng của tuyến giáp. Thiếu iod, tuyến giáp sưng to, hormon tuyến giáp
giảm làm cơ thể suy nhược, da khô và thô, tóc rụng, trí tuệ giảm, người như mụ
mẫm, buồn rầu...
Một nhược điểm của rong biển là
có tỷ lệ muối natri khá cao. Do đó, người mắc bệnh cao huyết áp không nên ăn
nhiều rong biển.
Rong biển đôi khi cũng làm cho mụn trứng cá trở nên trầm trọng hơn.